lợi dụng lòng tin chiếm đoạt tài sản
Bị cáo Lâm Kim Dũng (nguyên giám đốc Công ty TNHH địa ốc Lam Giang, cháu của bà Phấn) bị đề nghị 6 đến 7 năm tù Cụ thể về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Bà Hứa Thị Phấn. Viện kiểm sát nhân dân Tối cao vừa ban hành cáo trạng vụ án cố ý làm trái, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và vi phạm quy định về cho vay xảy ra tại Ngân hàng TMCP Đại Tín (TrustBank - nay là Ngân hàng thương mại TNHH MTV Xây dựng Việt Nam - VNCB
Liên quan đến vụ việc hot girl sinh năm 1995 N.T.V.A bị nhiều nạn nhân tố cáo lợi dụng lòng tin, chiếm đoạt tài sản lên đến hàng chục tỷ đồng. Trên trang cá nhân, chị L - chủ nợ 17 tỷ là người công khai rất nhiều thông tin, trong đó có loạt ảnh cho thấy "quái nữ" giả
Siêu Thì Vay Tiền Online. Anh Chiến có thắc mắc chào luật sư em muốn được luật sư tư vấn giải quyết về chuyện của em như sau cách đây không lâu em có cho anh B mượn chiếc xe airblade thai .. anh B nói chỉ mượn trong vong 24h khi đến giờ giao hẹn trả xe nhưng anh B vẫn không mang xe hoàn trả … và sau 2 ngày em có tìm đến nhà anh B thì em được biết chiếc xe đã bị cắm .. gia đình anh B đã hứa sẽ hoàn trả chiếc xe trong vòng 1 tuần … nhưng khi đến ngày hẹn gia đình em vẫn không nhận được chiếc xe như gia đình anh B đã hứa … mà khi em cho anh B mượn chiếc xe airblade thai . trong cốp xe có giấy tờ xe mang tên chính chủ em .. và cmnn điện thoại , tiền mặt 6trieu của anh trai ruột em .. mặc dù quá hạn nhiều ngày nhưng gia đình anh B vẫn không hoàn trả chiếc xe cho gia đình em ..và gia đình em đã viết đơn trinh báo lên công an xã … công an xã không giải quyết được và đã hướng cho ra đình làm đơn trình báo lên huyện khi làm đơn trình báo lên công an huyện .. em được công an huyện mời lên lấy lời khai 3 lần ..sự việc khá rõ ràng nên gia đình khá yên tâm. nhưng sau đó sự việc càng ngày càng đưa gia đinh em vào bế tắc .. công an huyện làm ngơ .. qua 3 tháng vẫn không hề có hồi âm của công an .. thơi gian gần đây gia đình em trực tiếp lên công an huyện để hỏi thì công an lại hướng cho gia đình em viết lại lá đơn trình báo về nội dung khác .. nhưng gia đình em không đồng ý. đến bh gia đình em muốn viết đơn trình báo lên công an thành phó thì phải làm như thế nào .. mong luật sư tư vấn giúp gia đình em ? em xin cảm ơn Luật sư giải đáp Chào bạn! Luật sư Đặng Văn Cường, Văn phòng luật sư Chính Pháp, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau 1. Theo quy định tại Điều 140 BLHS quy định “Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ một triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới một triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm a Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó; b Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.” Điều 142 BLHS quy định “Người nào vì vụ lợi mà sử dụng trái phép tài sản của người khác có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm“. Như vậy, theo thông tin bạn nêu thì người đó mượn xe của bạn sau đó mang đi cầm cố, không trả lại tài sản cho bạn. Hành vi đó là sử dụng trái phép tài sản. Nếu giá trị tài sản từ 50 triệu đồng trở lên hoặc đã bị xử phạt hành chính… thì người đó sẽ bị khởi tố về tội sử dụng trái phép tài sản theo quy định tại Điều 142 BLHS. Nếu người đó có hành vi gian dối, bỏ trốn hoặc sử dụng tài sản và mục đích bất hợp pháp dẫn đến mất khả năng trả lại tài sản thì mới bị xử lý về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại ĐIều 142 BLHS. Nếu người đó chỉ mang xe của bạn đi cầm cố sử dụng tài sản sai mục đích nhưng không đủ điều kiện xử lý theo Điều 142 BLHS thì vụ việc chỉ là quan hệ dân sự, bạn có thể khởi kiện tới tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự để yêu cầu hủy bỏ hợp đồng cầm cố tài sản và đòi lại chiếc xe đó. 2. Cầm cố tài sản để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ là một trong các biện pháp đảm bảo để thực hiện nghĩa vụ dân sự. Pháp luật cho phép công dân có thể thực hiện giao dịch cầm cố tài sản theo quy định pháp luật. Nếu mang tài sản của người khác đi cầm cố mà không được chủ sở hữu đồng ý thì giao dịch đó bị vô hiệu theo quy định pháp luật chứ không phải là tội phạm hình sự. Hành vi đó vì vụ lợi thì sẹ bị xử lý hành chính, nếu giá trị tài sản từ 50 triệu đồng trở lên hoặc thuộc trường hợp khác quy định tại Điều 142 BLHS thì mới có thể xử lý về tội này chứ không thể xử lý về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản – trừ khi người đó bỏ trốn hoặc che giấu việc cầm cố, phủ nhận việc đã nhận tài sản để chiếm đoạt tài sản đó gian dối. Vì vậy, vụ việc của bạn chưa thấy dấu hiệu của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại ĐIều 140 BLHS không bỏ trốn, không gian dối, không sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp mà chỉ có dấu hiệu của hành vi sử dụng trái phép tài sản. 3. Pháp luật quy định thời hạn kiểm tra xác minh nguồn tin về tội phạm, giải quyết đơn tố giác tội phạm là 20 ngày, nếu vụ việc phức tạp thì có thể kéo hơn nhưng không quá 2 tháng Điều 103 Bộ luật tố tụng hình sự. Vì vậy, bạn có thể có đơn thư kiến nghị cơ quan điều tra sớm có kết quả xác minh và thông báo cho bạn. Nếu vụ việc không thỏa mãn dấu hiệu cấu thành các tội theo quy định tại Điều 139 BLHS dùng thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản; Điều 140 BLHS, Điều 142 BLHS thì vụ việc chỉ là quan hệ dân sự và bạn có thể khởi kiện để đòi tài sản theo thủ tục tố tụng dân sự. ✅ Dịch vụ thành lập công ty ⭕ ACC cung cấp dịch vụ thành lập công ty/ thành lập doanh nghiệp trọn vẹn chuyên nghiệp đến quý khách hàng toàn quốc ✅ Đăng ký giấy phép kinh doanh ⭐ Thủ tục bắt buộc phải thực hiện để cá nhân, tổ chức được phép tiến hành hoạt động kinh doanh của mình ✅ Dịch vụ ly hôn ⭕ Với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn ly hôn, chúng tôi tin tưởng rằng có thể hỗ trợ và giúp đỡ bạn ✅ Dịch vụ kế toán ⭐ Với trình độ chuyên môn rất cao về kế toán và thuế sẽ đảm bảo thực hiện báo cáo đúng quy định pháp luật ✅ Dịch vụ kiểm toán ⭕ Đảm bảo cung cấp chất lượng dịch vụ tốt và đưa ra những giải pháp cho doanh nghiệp để tối ưu hoạt động sản xuất kinh doanh hay các hoạt động khác ✅ Dịch vụ làm hộ chiếu ⭕ Giúp bạn rút ngắn thời gian nhận hộ chiếu, hỗ trợ khách hàng các dịch vụ liên quan và cam kết bảo mật thông tin
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN DŨNG, TỈNH BẮC GIANGBẢN ÁN 05/2022/HS-ST NGÀY 26/01/2022 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢNNgày 26 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Yên D, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 03/2022/HSST ngày 10 tháng 01 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2022/QĐXXST- HS ngày 14 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáoHọ và tên Hoàng Văn T, sinh năm 1995 tại huyện Yên D, tỉnh Bắc Giang; Nơi cư trú Tổ dân phố Đông H, thị trấn Nham B, huyện Yên D, tỉnh Bắc Giang; nghề nghiệp Lao động tự do; trình độ văn hóa 09/12; dân tộc Kinh; giới tính Nam; tôn giáo Không; quốc tịch Việt Nam; con ông Hoàng Văn T và bà Lương Thị H; Vợ, con Chưa có;-Tiền án Ngày 21/01/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Yên D xử phạt 09 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 06/7/ Tiền sự Không;- Nhân thân+ Ngày 18/01/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Yên D xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời gian thử thách là 12 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm;+ Ngày 25/12/2020, bị cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên D khởi tố về tội "Trộm cắp tài sản".Bị cáo bị bắt truy nã, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang trong một vụ án khác có mặt tại phiên Tòa.- Bị hại Anh Lê Văn T, sinh năm 1998, địa chỉ Thôn Liêm X, xã Song K, thành phố Bắc G, tỉnh Bắc Giang.vắng mặt - Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Dương Đại L, sinh năm 1966; địa chỉ Số 1A, ngõ 10, phường Thành C, quận Ba Đ, thành phố Hà Nội.vắng mặt2. Ông Dương Thanh B, sinh năm 1943; địa chỉ Xóm T, xã Nội H, huyện Yên D, tỉnh Bắc Giang.vắng mặt3. Chị Lê Thị L, sinh năm 1987; địa chỉ Thôn Thanh V, xã Đức G, huyện Yên D, tỉnh Bắc Giang.vắng mặt4. Anh Vũ Văn H, sinh năm 1988; địa chỉ Thôn Thanh V, xã Đức G, huyện Yên D, tỉnh Bắc Giang.vắng mặt- Người làm chứng1. Anh Nguyễn Văn V, sinh năm 1999.vắng mặt2. Anh Nguyễn Huy H, sinh năm 1995.vắng mặt Đều địa chỉ Xóm T, xã Nội H, huyện Yên D, tỉnh Bắc DUNG VỤ ÁNTheo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau Hoàng Văn T, sinh năm 1995, ở Tổ dân phố Đông H, thị trấn Nham B, huyện Yên D, tỉnh Bắc Giang có mối quan hệ quen biết với anh Lê Văn T, sinh năm 1998 ở thôn Liêm X, xã Song K, thành phố Bắc G, tỉnh Bắc Giang. Do trước đó, Thể có quên giấy chứng minh nhân dân ở một nhà nghỉ T không nhớ tên cụ thể tại thị xã Từ S nay là thành phố Từ S, tỉnh Bắc Ninh, biết anh Thắng có xe mô tô, nên buổi trưa ngày 23/4/2018, khi đang chơi điện tử tại quán Internet ở thôn N, xã Nội H, huyện Yên Dũng, T có nhắn tin qua mạng xã hội Facebook cho anh T để hỏi mượn xe mô tô anh Thắng để đi lấy giấy chứng minh thư nhân dân thành phố Từ S, tỉnh Bắc N thì được anh T đồng ý. Khoảng 12 giờ cùng ngày, anh T đi xe mô tô biển kiểm soát 13-836-H1 đến quán Internet ở thôn N, xã Nội H trên đón T, sau đó cả 2 đi đến Tổ dân phố My Đ, thị trấn N, huyện Việt Y, tỉnh Bắc Giang rồi anh T giao xe mô tô biển kiểm soát 13-836-H1 cho T. Mượn được xe, T điều khiển xe mô tô đi lấy chứng minh thư nhân dân ở thành phố Từ S, tỉnh Bắc Ninh. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, sau khi lấy chứng minh thư nhân dân xong, T điều khiển xe trở về quán Internet ở thôn N, xã Nội H, huyện Yên Dũng chơi điện tử. Khi về đến quán, do không có tiền tiêu sài, T nảy sinh ý định đem xe mô tô mượn của anh T đem đi cắm lấy tiền nên T không vào quán Internet chơi nữa mà đi xe mô tô đến cửa hàng mua bán xe máy của anh Vũ Văn H, sinh năm 1985, ở thôn Thanh V, xã Đức G, huyện Yên D nói dối là xe của Thể cắm cho chị Lê Thị L, sinh năm 1987 là vợ của anh H được đồng dưới hình thức viết giấy vay tiền, trong đó cắt lãi đồng cho chị H luôn, còn T cầm đồng, dùng ăn tiêu cá nhân hết không có khả năng chuộc lại xe trả cho anh T. Sau đó, Thể bỏ trốn khỏi địa với anh Lê Văn T, sau khi cho Thể mượn xe không thấy T đem quay lại trả, anh T liên lạc nhiều lần nhưng không được, nên đã làm đơn trình báo ra cơ quan công khi nhận đơn trình báo, cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, điều tra, ngày 15/5/2018 và ngày 30/5/2018, cơ quan điều tra đã thu giữ tại cửa hàng sửa chữa xe máy của anh Vũ Văn H ở thôn Thanh V, xã Đức G, huyện Yên D chiếc xe mô tô biển kiểm soát 13-836-H1; 01chứng minh thư nhân dân mang tên Hoàng Văn T và 01 giấy biên nhận vay tiền do T kết luận định giá tài sản số 34 ngày 28/5/2018, của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Yên D kết luận Chiếc xe mô tô T chiếm đoạt của anh H trị giá là 28/12/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên D trưng cầu giám định đến Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang để giám định chữ viết, chữ ký trên giấy "BIÊN NHẬN VAY TIỀN" đề tên Hoàng Văn T. Tại bản kết luận giám định số 06 ngày 04/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận "Chữ ký dạng chữ viết, chữ viết trên tài liệu cần giám định ký hiệu A so với chữ ký, chữ viết của Hoàng Văn T trên các tài liệu mẫu ký hiệu M1, M2 là do cùng một người ký, viết ra".Quá trình điều tra xác định, chiếc xe mô tô biển kiểm soát 13-836-H1 mang tên ông Dương Đại L, ông L đã bán lại cho ông Dương Thanh B là ông ngoại của anh Lê Văn T. Ngày 20/8/2018, Cơ quan điều tra trả lại cho ông Dương Thanh B chiếc xe mô tô trên, ông B đã nhận lại và không có yêu cầu đề nghị với chị Lê Thị L có hành vi nhận cầm cố chiếc xe mô tô do T đem đến cắm, nhưng chị L không biết đó là tài sản do T phạm tội mà có, ngoài lời khai, không có chứng cứ khác nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý. Ch ị L yêu cầu T hoàn trả cho chị đồng, đến nay T chưa trả lại chị với 01 giấy chứng minh thư nhân dân của Thể được chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên D để giải quyết theo quy Cơ quan điều tra, Hoàng Văn T đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu Bản Cáo trạng số 06/CT -VKSYD ngày 06/01/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Yên D, tỉnh Bắc Giang truy tố bị cáo Hoàng Văn T về tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản", quy định tại điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình phiên tòaBị cáo Thể khai nhận nội dung diễn biến sự việc như bản Cáo trạng nêu là đúng, Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội danh, điều, khoản trên là đúng, không oan. Bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo nhất trí trả lại số tiền đồng cho chị Lê Thị L. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị đồng xét xử công bố lời khai của những người tham gia tố tụng được triệu tập nhưng vắng mặt tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Dũng sau khi phân tích, đánh giá các tình tiết, chứng cứ của vụ án vẫn giữ nguyên quyết định như đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn T phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 175; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự Xử phạt bị cáo Hoàng Văn Thể từ 10 đến 12 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành trách nhiệm dân sự Căn cứ Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 579 Bộ luật Dân sự năm 2015 BLDS Buộc bị cáo Hoàng Văn Thể phải hoàn trả cho chị Lê Thị Lới số tiền Xử lý vật chứng Căn cứ Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS trả lại Hoàng Văn Thể 01 chứng minh nhân dân mang tên Hoàng Văn T nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án phí Bị cáo Hoàng Văn T phải chịu đồng án phí hình sự sơ thẩm và đồng án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp ĐỊNH CỦA TÒA ÁNTrên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Yên D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp phiên tòa hôm nay bị hại anh Lê Văn T; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Dương Đại L, ông Dương Thanh B, chị Lê Thị L, anh Vũ Văn H;người làm chứng anh Nguyễn Văn V, anh Nguyễn Huy H vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại Điều 292, điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự xét xử vắng mặt họ.[2]. Xét về tội danh Tại phiên toà, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản cáo trạng đã truy tố; lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với thời gian, địa điểm xảy ra tội phạm. Có đủ cơ sở kết luận Hồi 15 giờ ngày 23/4/2018, tại thôn Nội, xã Nội H, huyện Yên D, tỉnh Bắc Giang, Hoàng Văn T có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt 01 xe mô tô biển kiểm soát 13-836-H1 trị giá đồng của anh Lê Văn T, sinh năm 1998, ở thôn Liêm X, xã Song K, thành phố Bắc G, tỉnh Bắc Giang sau đó đem đi cắm được đồng dưới hình thức viết giấy vay, trong đó cắt lãi cho chị L đồng, còn T cầm đồng, dùng chi tiêu cá nhân hết. Cơ quan điều tra đã thu giữ được tài sản trả lại bị vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận Bị cáo Hoàng Văn T phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản", theo điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Cáo trạng số 06/CT -VKSYD ngày 06/01/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Yên D, tỉnh Bắc Giang truy tố đối với Hoàng Văn T là đúng người, đúng tội.[3]. Xét về tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm vào quyền sở hữu đối với tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây tâm lý hoang mang cho người dân. Bị cáo đã lợi dụng quan hệ và lòng tin của chủ sở hữu thực hiện hành vi Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Bị cáo nhận thức được hành vi Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là trái pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội nêu trên, thể hiện sự coi thường pháp luật. Do vậy, cần phải xử nghiêm bị cáo bằng pháp luật hình sự mới đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung đối với loại tội này.[4]. Xét về nhân thân bị cáo, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấyVề nhân thân Bị cáo Hoàng Văn T có nhân thân xấu. Ngày 18/01/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Yên D xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời gian thử thách là 12 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; ngày 25/12/2020, bị cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên D khởi tố về tội "Trộm cắp tài sản".Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự Bị cáo T đã có tiền án chưa được xóa án tích nhưng không lấy đó làm bài học, nay lại tiếp tục phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp nên phải chịu tình tiết tăng nặng là Tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.[5]. Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của bị cáo, trên cơ sở xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người bị hại mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, bản thân bị cáo có nhân thân xấu. Do đó, cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.[6]. Về hình phạt bổ sung Hiện nay bị cáo không có việc làm, thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng, nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.[7]. Về xử lý vật chứng 01 chứng minh thư nhân dân tên Hoàng Văn T không liên quan đến việc phạm tội cần trả lại cho bị cáo.[8]. Về trách nhiệm dân sự Đối với chị Lê Thị L yêu cầu bị cáo T trả cho chị số tiền đồng. Hội đồng xét xử thấy bị cáo Thể mang xe đi cắm cho chị L được đồng dưới hình thức viết giấy vay, trong đó cắt lãi cho chị L đồng, còn T cầm đồng, dùng chi tiêu cá nhân hết. Khi nhận cầm cố thì chị L không biết là tài sản do thể phạm tội mà có, chiếc xe đã được thu hồi trả lại cho chủ sở hữu. Do vậy, yêu cầu của chị L là phù hợp với khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 579 BLDS nên cần chấp nhận.[9]. Về án phí Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.[10]. Về quyền kháng cáo Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, để Hội đồng xét xử tuyên quyền kháng các lẽ trên,QUYẾT cứ điểm b khoản 1 Điều 175, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 50, Điều 47, khoản 1 Điều 48 BLHS; Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 579 BLDS năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23, Điều 26, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa phạt Bị cáo Hoàng Văn T 10 tháng tù về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành trách nhiệm dân sự Buộc bị cáo Hoàng Văn T phải hoàn trả cho chị Lê Thị L số tiền đồng Bốn triệu năm trăm nghìn đồng chẵn.Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn đề nghị thi hành án mà người phải thi hành án không thi hành hoặc thi hành không đầy đủ số tiền phải thi hành án thì người phải thi hành án còn phải chịu tiền lãi của số tiền chưa thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm thi hành lý vật chứng Trả lại 01 chứng minh thư nhân dân tên Hoàng Văn T cho bị cáo Hoàng Văn T nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành Về án phí Bị cáo Hoàng Văn T phải chịu đồng Hai trăm nghìn đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và đồng án phí dân sự sơ Về quyền kháng cáo Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị hại, người liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án theo quy định pháp hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2- Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7, 7a, 7b và 9 - Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 - Luật thi hành án dân
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 175 Bộ luật Hình sự Hình từ internet Về vấn đề này, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT giải đáp như sau 1. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 175 Bộ luật Hình sự Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 175 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi 2017 có khung hình phạt như sau * Khung 1 Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ đồng đến dưới đồng hoặc dưới đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật Hình sự, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm - Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; - Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. * Khung 2 Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm - Có tổ chức; - Có tính chất chuyên nghiệp; - Chiếm đoạt tài sản trị giá từ đồng đến dưới đồng; - Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; - Dùng thủ đoạn xảo quyệt; - Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; - Tái phạm nguy hiểm. * Khung 3 Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá từ đồng đến dưới đồng, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm. * Khung 4 Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. * Hình phạt bổ sung Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ đồng đến đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Như vậy, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 175 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi 2017 có mức hình phạt cao nhất là 20 năm tù. 2. Mức phạt hành chính hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Nếu chưa đủ dấu hiệu cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì người có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có thể bị xử phạt hành chính như sau Phạt tiền từ đồng đến đồng đối với một trong những hành vi sau đây - Bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản hoặc đến thời điểm trả lại tài sản do vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng, mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; - Không trả lại tài sản cho người khác do vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng nhưng sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. Điểm c, d khoản 1 Điều 15 Nghị định 144/2021/NĐ-CP Xem thêm Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Diễm My Nội dung nêu trên là phần giải đáp, tư vấn của chúng tôi dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc, vui lòng gửi về Email info
lợi dụng lòng tin chiếm đoạt tài sản