nguyên tắc phối hợp kháng sinh trong thú y

Dùng phối hợp bromhexin với kháng sinh (amoxicilin, cefuroxim, erythromycin, docycyclin) làm tăng nồng độ kháng sinh vào mô phổi và phế quản. Như vậy, bromhexin có thể có tác dụng như một thuốc bổ trợ trong điều trị nhiễm khuẩn hô hấp, làm tăng tác dụng của kháng sinh. Sinh sống/ cư trú trong viện dưỡng lão hoặc trung tâm chăm sóc dài hạn. Được điều trị kháng sinh tiêm tĩnh mạch, hóa trị trong thời gian gần đây hoặc chăm sóc vết thương trong vòng 30 ngày. Chạy thận nhân tạo tại bệnh viện hay tại đơn vị chạy thận. 4. Viêm phổi do hít 9. Định hướng phát triển: - Tiếp tục phát triển chuyên khoa sâu trong chẩn đoán và điều trị về các bệnh lý tiêu hoá và gan mật: Ngoài những kỹ thuật đã nêu trên khoa sẽ có kế hoạch phát triển kỹ thuật mới như: Kẹp hemoclip cầm máu trong xuất huyết tiêu hóa do loét dạ dày tá tràng, nong hẹp hẹp thực quản Siêu Thì Vay Tiền Online. Nội dung tóm tắt1 Phối hợp thuốc kháng sinh trong thú Mục đích của phối hợp kháng Nguyên tắc phối hợp thuốc kháng sinh trong thú y2 Việc phối hợp kháng sinh nhằm 3 mục Nhóm Nhóm Nguyên tắc phối hợp Hiệu quả điều trị các bệnh do nhiễm khuẩn phụ thuộc vào Trong gần 50 năm kể từ khi được phát hiện, kháng sinh đã được sử dụng trong thức ăn chăn nuôi không chỉ với vai trò là chất kháng khuẩn mà còn là chất kích thích tăng trưởng và chất tăng cường năng suất. Nhưng hiện nay nhiều người vẫn phối hợp kháng sinh thú y sai sách. Cùng Việt Anh Viavet tìm hiểu thông qua bài viết dưới đây nhé. Phối hợp thuốc kháng sinh trong thú y Do kháng sinh loại nào cũng có tác dụng hạn chế trong việc tăng khả năng kháng bệnh cho vật nuôi nên người chăn nuôi cần phối hợp sử dụng thuốc hợp lý. Mục đích của phối hợp kháng sinh Kháng khuẩn phổ rộng. Ngăn ngừa giảm sức đề kháng. Tăng tác dụng khử trùng. Điều trị nhiễm trùng mà không có kết quả xét nghiệm chính thức. Xem thêm Thuốc bột kháng sinh uống, trộn thức ăn Nguyên tắc phối hợp thuốc kháng sinh trong thú y Sử dụng đồng thời kháng sinh trong thú y có thể giúp tăng hiệu quả nhưng cũng làm tăng tần suất tác dụng phụ. Vì vậy, người chăn nuôi cần tuân thủ một số nguyên tắc phối hợp kháng sinh trong chăn nuôi dưới đây để tránh những tác hại gián tiếp cho vật nuôi. Hai thành phần kháng sinh nên có tác dụng diệt khuẩn hoặc kìm khuẩn như nhau. Kháng sinh diệt khuẩn có thể tiêu diệt vi khuẩn bao gồm các nhóm sau beta-lactam, aminoglycoside, polypeptide, fluoroquinolones, rifamycin. Thuốc kháng sinh kìm khuẩn chỉ ức chế sự phát triển của vi khuẩn chứ không tiêu diệt được chúng. Ví dụ tetracycline, lincosamid, macrolide, fenecol. Phối hợp hai loại kháng sinh dễ gây đối kháng, tác dụng ngược. Đồng thời, các chủ đàn cần lưu ý, chỉ nên sử dụng kháng sinh kìm khuẩn khi cơ thể vật nuôi còn khỏe, kháng sinh có tác dụng làm vi khuẩn yếu đi và hệ thống đề kháng để tiêu diệt chúng là cần thiết. Kháng sinh nhị phân không nên có cùng cơ chế hoạt động. Đặc biệt khi dùng kháng sinh ức chế tổng hợp thành tế bào, kháng sinh ức chế tổng hợp protein không những không hiệu quả mà còn ảnh hưởng đến hệ miễn dịch. Kháng sinh nhị phân không kích thích kháng thuốc. Ví dụ, cefoxitin không thể kết hợp với penicillin vì nó kích thích vi khuẩn kháng penicillin bằng cách tiết ra các enzym phân hủy kháng sinh có tác dụng với penicillin. Một số kết hợp hiệu quả là beta-lactamine + aminoglycoside. glycopeptide + aminoglycoside; sulfamid + trimethoprim. Một số kết hợp cần tránh là aminoglycoside + chloramphenicol, aminoglycoside + tetracycline, quinolone + chloramphenicol. Việc phối hợp kháng sinh nhằm 3 mục đích Tăng khả năng khử trùng. Điều trị nhiều bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn. Giảm khả năng xuất hiện vi khuẩn kháng thuốc. Tuy nhiên, kháng sinh có nhiều nhóm, nhiều loại nên việc ghi nhớ cách phối hợp đúng không hề đơn giản kể cả bác sĩ. Trên thực tế, khi điều trị kháng sinh, người ta “gom” chúng thành 2 nhóm lớn Xem thêm Kháng sinh trimethoprim được sử dụng trong thú y như thế nào? Nhóm A Beta-lactam Penicillin, Ampicillin, Amoxcillin, Cephalosporin, Cephalexin, Cephalothin, Cephalor… Aminosid Streptomycin, Gentamycin, Neomycin, Kanamycin, Apramycin, Spectinomycin… Nhóm B Phenicol Chloramphenicol đã cấm sử dụng, Thiamphenicol, Florphenicol Cyclin Tetracyclin, Oxytetracyclin OTC, Chlortetracyclin CTC, Doxycycline Macrolid Erythromycin, Spiramycin, Oleandomycin, Tylosin, Tiamulin Nguyên tắc phối hợp A+A phối hợp 2 kháng sinh nhóm A hiệp đồng tăng tác dụng; điển hình dương vật + liên cầu B + B phối hợp 2 kháng sinh nhóm B không hiệp đồng, không đối kháng, chỉ 1 tác dụng “mạnh ai nấy làm” A+B phối hợp 1 kháng sinh nhóm A và 1 kháng sinh nhóm B đối kháng mất tác dụng Dung môi và tá dược cũng là những yếu tố quan trọng, nên với những người chưa có kinh nghiệm nên sử dụng kháng sinh và sulfonamid do nhà sản xuất điều chỉnh. Ví dụ Shotapen LA – Virbac Peni + Strep, Codexin – Bio Ampi + Colistin, Septryl 240 – Minh Dung Sulfamethoxypyridazine + Trimethoprim, Genta-Tylo, Linco-Spec, Amox-Genta, Ampi-Kana, Tylo -Spec, DOC OTC + Colistin + Dexha, Sone CTC + Thiam + Dexha… Sử dụng đồng thời kháng sinh đồng nghĩa với việc sử dụng nhiều loại kháng sinh hơn, dẫn đến tăng chi phí điều trị và hơn hết là tỷ lệ mắc các tác dụng phụ liên quan đến thuốc cũng cao hơn. Chúng ta cần xác định một số trường hợp cần phối hợp kháng sinh cho vật nuôi. Chúng có thể được liệt kê như thế này Nhiễm trùng do nhiều loại vi khuẩn ví dụ áp xe não, đôi khi cần phối hợp 3 loại kháng sinh đặc biệt vancomycin + cefotaxime + metronidazole. Sốc nhiễm trùng hoặc nhiễm trùng nặng Đang chờ kết quả xét nghiệm thường là kết hợp beta-lactam + aminoside. Nhiễm trùng giảm bạch cầu hoặc suy giảm miễn dịch có thể phải dùng tobramycin + ticarcillin. Viêm nội tâm mạc penicillin + aminosides hoặc quản lý kháng thuốc vancomycin + aminosides. Bệnh lao, bệnh brucella điều trị bệnh lao thường phải phối hợp 3 loại kháng sinh. Nhiễm trùng với một số vi khuẩn Pseudomonas aeruginosa, Enterobacter, Serratia, Citrobacter, Listeria, Enterococcus. Các vi khuẩn này dễ dàng đột biến và phát sinh chủng kháng thuốc ví dụ khi dùng ceftazidime + amikacin để điều trị Pseudomonas aeruginosa. Khi dùng kháng sinh phải dùng phối hợp với các loại kháng sinh khác. Loại kháng sinh này rất dễ bị kháng khi dùng đơn độc rifampicin, acid fusidic, fosfomycin. Hai kháng sinh phối hợp phải có cùng tác dụng, cùng tác dụng kìm khuẩn hoặc cùng tác dụng diệt khuẩn. Kiềm khuẩn kìm khuẩn, kìm khuẩn, kìm khuẩn hay còn gọi là kìm khuẩn là đặc tính của kháng sinh chỉ ức chế sự phát triển của vi khuẩn chứ không thể tiêu diệt chúng. Đặc tính diệt khuẩn là đặc tính của kháng sinh tiêu diệt vi khuẩn. Kháng sinh diệt khuẩn chỉ dùng khi cơ thể còn khoẻ. Điều này là do thuốc ngăn chặn sự phát triển của vi khuẩn, làm chúng yếu đi và hệ thống phòng thủ của cơ thể đảm nhận nhiệm vụ tiêu diệt chúng. Nếu nhiễm trùng nặng, việc sử dụng kháng sinh diệt khuẩn là rất cần thiết, vì nó làm cơ thể yếu đi. Không kết hợp kháng sinh kìm khuẩn và diệt khuẩn. Điều này dẫn đến tác dụng đối kháng. Ví dụ, kháng sinh nhóm beta-lactam gồm cephalexin và amoxicillin ngăn chặn quá trình tổng hợp vỏ vi khuẩn, tiêu diệt và tiêu diệt vi khuẩn không có vỏ bọc, chỉ phát huy tác dụng diệt khuẩn này khi vi khuẩn còn tốt. Khi kết hợp kháng sinh beta-lactam với kháng sinh kìm khuẩn như tetracycline, chloramphenicol… thì beta-lactam đối kháng không còn được coi là có hiệu quả. Ribosome bị trơ vì nó ảnh hưởng đến bộ phận giúp tổng hợp protein cho sự phát triển và sinh trưởng của cơ thể vi khuẩn. Vi khuẩn không chết, nhưng chúng ngừng phát triển và ngừng tổng hợp lớp vỏ là mục tiêu tác động của beta-lactam. Một vài trường hợp đặc biệt nên được đề cập ở đây. Kháng sinh nhóm aminoside streptomycin, gentamicin, kanamycin, tác động lên ribosome nhưng có tác dụng diệt khuẩn chứ không kìm khuẩn như tetracycline. Do đó, có thể kết hợp thuốc beta-lactam với axit amin. Thuốc kháng sinh Cotrim co-trimoxazole, còn được biết đến với tên thương hiệu phổ biến Bactrim thực sự là sự kết hợp của hai loại kháng sinh. Sulfamethoxazole là sulfamid và một loại kháng sinh khác là trimethoprim. Sulfamethoxazole và trimethopurine là hai loại kháng sinh kìm khuẩn nhưng khi phối hợp trong Cotrim sẽ có tác dụng hiệp đồng trong việc diệt khuẩn. Erythromycin được coi là kháng sinh kìm khuẩn vì tác dụng lên ribosom của vi khuẩn, nhưng khi dùng ở nồng độ cao trong máu lại có tác dụng diệt khuẩn. Do đó, erythromycin đôi khi được kết hợp với kháng sinh diệt khuẩn. Nếu chưa rõ, tôi thắc mắc về chỉ định phối hợp Erythromycin với Cotrim Cotrim đã nói ở trên, phối hợp 2 loại kháng sinh tạo ra tác dụng diệt khuẩn, thường chỉ dùng Cotrim là đủ. Các bác sĩ vẫn sử dụng nó với các loại kháng sinh khác đặt câu hỏi ngay cả với sự kết hợp do Việt Nam sản xuất có tên là Eribactrim và Sulfericin. Hai kháng sinh phối hợp không cùng cơ chế tác dụng hoặc không cùng gây độc trên các cơ quan Ví dụ, không nên phối hợp hai beta-lactam vì chúng có tác dụng như nhau trên màng tế bào vi khuẩn. Cũng không nên kết hợp hai loại kháng sinh từ cùng một nhóm aminoside. Cùng nhóm gây giảm thính lực và suy thận nặng nhưng không làm tăng hiệu quả điều trị. Sử dụng hai loại kháng sinh cùng nhau không kích thích kháng thuốc Ví dụ, không kết hợp cefoxitin và penicillin. Cefoxitin khi kết hợp với penicillin sẽ kích thích vi khuẩn kháng penicillin bằng cách tiết ra các enzym phân hủy kháng sinh. Những điều đã nói ở trên minh họa lý do tại sao chỉ nên sử dụng thuốc kháng sinh khi được bác sĩ thú y hướng dẫn và kê đơn. Có nhiều vấn đề liên quan đến việc sử dụng thuốc kháng sinh, bao gồm cả việc phối hợp kháng sinh, sự kết hợp này hoàn toàn tương ứng với nguyên tắc kết hợp hai loại kháng sinh cùng loại diệt khuẩn Xin lưu ý rằng sự kết hợp này có thể gây hại . Liên quan đến vấn đề phối hợp penicillin và streptomycin không vi phạm nguyên tắc phối hợp kháng sinh nhưng hiện nay streptomycin là kháng sinh rất hạn chế chỉ được dùng như một loại thuốc chống lao nên không nên dùng phối hợp, khuyến cáo, có nhiều loại kháng sinh mới dùng đơn lẻ hiệu quả hơn loại phối hợp này. Hiệu quả điều trị các bệnh do nhiễm khuẩn phụ thuộc vào Phát hiện bệnh kịp thời sớm; Chẩn đoán chính xác đúng bệnh; Sử dụng kháng sinh đúng nguyên tắc chọn kháng sinh đúng tác nhân gây bệnh, đúng liều lượng, đúng liệu trình; nâng đỡ, hỗ trợ, chăm sóc. Hy vọng những thông tin chúng tôi cung cấp hữu ích đối với bạn, và bạn đọc đã nắm được thông tin về cách phối hợp kháng sinh thú y, một số nguyên tắc cũng như mục đích phối hợp. Bảng nguyên tắc phối hợp kháng sinh trong Thú y Việc phối hợp kháng sinh nhằm 3 mục đích Tăng khả năng diệt khuẩn. Điều trị trường hợp nhiễm nhiều loại vi khuẩn. Giảm khả năng xuất hiện chủng vi khuẩn đề kháng. Tuy nhiên, kháng sinh có nhiều nhóm, nhiều loại nên việc nhớ để phối hợp đúng là điều không dễ dàng kể cả bác sĩ y khoa. Thực tế trong công tác điều trị, người ta “gom” kháng sinh làm 2 nhóm lớn Nhóm A Beta-lactam Penicillin, Ampicillin, Amoxcillin, Cephalosporin, Cephalexin, Cephalothin, Cephalor… Aminosid Streptomycin, Gentamycin, Neomycin, Kanamycin, Apramycin, Spectinomycin… Nhóm B Phenicol Chloramphenicol đã cấm sử dụng, Thiamphenicol, Florphenicol Cyclin Tetracyclin, Oxytetracyclin OTC, Chlortetracyclin CTC, Doxycycline Macrolid Erythromycin, Spiramycin, Oleandomycin, Tylosin, Tiamulin Nguyên tắc phối hợp A+A phối hợp 2 kháng sinh cùng trong nhóm A tác dụng hiệp đồng tăng tác dụng; Ví dụ điển hình Peni + Strep B+B phối hợp 2 kháng sinh cùng trong nhóm B không hiệp đồng, không đối kháng, chỉ tác dụng đơn thuần “việc ai nấy làm” A+B phối hợp 1 kháng sinh nhóm A & 1 kháng sinh nhóm B tác dụng đối kháng mất tác dụng Dung môi hòa tan, tá dược… là những yếu tố không kém phần quan trọng nên khuyến cáo đối với người chưa có kinh nghiệm là nên sử dụng kháng sinh, sulfamid đã được các nhà sản xuất phối hợp sẵn. Ví dụ Shotapen LA – Virbac Peni + Strep, Codexin – Bio Ampi + Colistin, Septryl 240 – Minh Dũng Sulfamethoxypyridazin + Trimethoprim, Genta-Tylo, Linco-Spec, Amox-Genta, Ampi-Kana, Tylo-Spec, DOC OTC + Colistin + Dexa, Sone CTC + Thiam + Dexa… Vì phối hợp kháng sinh có nghĩa số kháng sinh dùng nhiều hơn đưa đến giá cả điều trị tăng cao và nhất là tỷ lệ bị tác dụng phụ do thuốc nhiều hơn nên sự phối hợp đòi hỏi thận trọng và cân nhắc tối đa. Cần khu trú một số trường hợp cần phối hợp kháng sinh, có thể kể như sau Khi bị nhiễm nhiều loại vi khuẩn như bị áp-xe não có khi phải phối hợp 3 loại kháng sinh thuộc loại đặc biệt vancomycin + cefotaxim + metronidazol. Sốc nhiễm khuẩn hoặc nhiễm khuẩn nặng chờ kết quả xét nghiệm thường phối hợp beta–lactam + aminosid. Nhiễm khuẩn giảm bạch cầu hoặc bị suy giảm miễn dịch có khi phải phối hợp tobramycin + ticarcillin. Viêm màng trong tim penicillin + aminosid hoặc đối phó với đề kháng vancomycin + aminosid. Lao, brucellose điều trị lao thường phải phối hợp 3 kháng sinh. Nhiễm loại vi khuẩn đặc biệt pseudomonas aeruginosa, enterobacter, serratia, citrobacter, listeria, enterococcus do các loại vi khuẩn này rất dễ đột biến tạo chủng đề kháng như trị có khi dùng ceftazidim + amikacin. Khi dùng loại kháng sinh cần phải phối hợp với kháng sinh khác vì nếu dùng một mình kháng sinh này rất dễ bị đề kháng rifampicin, acid fusidic, fosfomycin. Hai kháng sinh phối hợp nên cùng loại tác dụng, hoặc cùng có tác dụng hãm khuẩn hoặc cùng có tác dụng diệt khuẩn – Hãm khuẩn còn được gọi kìm khuẩn, tĩnh khuẩn, trụ khuẩn hay “ngưng trùng”, bacteriostatic là đặc tính của loại kháng sinh chỉ ức chế sự phát triển của vi khuẩn chứ không tiêu diệt. – Diệt khuẩn bactericidal là đặc tính của kháng sinh có khả năng tiêu diệt vi khuẩn. Ta chỉ dùng kháng sinh hãm khuẩn trong trường hợp cơ thể còn sức, vì thuốc chỉ làm vi khuẩn ngưng phát triển, yếu đi và hệ thống đề kháng của cơ thể sẽ làm nhiệm vụ tiêu diệt chúng. Nếu bị nhiễm khuẩn nặng, cơ thể bị suy yếu, bắt buộc phải dùng kháng sinh diệt khuẩn. Không phối hợp kháng sinh hãm khuẩn và kháng sinh diệt khuẩn vì sẽ đưa đến hiệu ứng đối kháng. Ví dụ kháng sinh nhóm beta-lactam trong đó có cefalexin và amoxicillin có tác dụng diệt khuẩn do ngăn chặn sự tổng hợp lớp vỏ bao bọc của vi khuẩn, vi khuẩn không có vỏ bọc cơ thể nó sẽ vỡ tung xem như bị tiêu diệt, và tác dụng diệt khuẩn này chỉ phát huy khi vi khuẩn còn có sự phát triển tốt, tổng hợp được lớp vỏ. Nếu phối hợp kháng sinh beta–lactam với một kháng sinh có tác dụng hãm khuẩn như tetracyclin, cloramphenicol… xem như beta–lactam bị đối kháng không còn tác dụng. Bởi vì kháng sinh hãm khuẩn thường tác động đến ribosom một bộ phận trong cơ thể vi khuẩn giúp nó tổng hợp protein để phát triển, tăng trưởng làm ribosom không hoạt động tức là làm cho vi khuẩn không còn phát triển, tuy không chết nhưng ngưng phát triển, không tiếp tục tổng hợp lớp vỏ bọc là đích tác dụng mà beta–lactam tác động vào. Cơ chế tác động của một số loại kháng sinh đối với vi khuẩn Ở đây, cần nêu một số trường hợp đặc biệt. Kháng sinh nhóm aminosid như streptomycin, gentamycin, kanamycin… tuy tác động vào ribosom nhưng lại có tác dụng diệt khuẩn chứ không có tác dụng hãm khuẩn như tetracyclin. Vì vậy, có thể phối hợp thuốc nhóm beta–lactam với nhóm aminosid. Kháng sinh cotrim còn gọi là cotrimoxazol, biệt dược thông dụng bactrim thực sự là thuốc phối hợp hai kháng sinh sulfamethoxazol là một sulfamid với một kháng sinh khác là trimethoprim. Sulfamethoxazol và trimethoprin là hai kháng sinh hãm khuẩn nhưng khi phối hợp trong cotrim thì lại đạt được tác dụng hiệp đồng synergism là diệt khuẩn. Erythromycin được xem là kháng sinh hãm khuẩn vì tác động trên ribosom của vi khuẩn nhưng nếu khi dùng, đạt được nồng độ thuốc trong máu cao sẽ có tác dụng diệt khuẩn. Vì vậy, có khi erythromycin được phối hợp với kháng sinh diệt khuẩn. Nếu không rõ điều vừa kể, ta sẽ thắc mắc đối với chỉ định phối hợp erythromycin với cotrim cotrim như đã trình bày, phối hợp sẵn hai kháng sinh đạt được tác dụng diệt khuẩn, trong nhiều trường hợp chỉ dùng một mình cotrim đủ để trị bệnh nhiễm khuẩn. Tuy nhiên, có một số nhà điều trị vẫn phối hợp nó với kháng sinh khác, thậm chí thắc mắc với thuốc đã phối hợp sẵn do Việt Nam sản xuất có tên erybactrim, sulferycin. Hai kháng sinh phối hợp không thuộc cùng một cơ chế tác dụng hoặc không gây độc trên cùng một cơ quan Ví dụ như không nên phối hợp hai beta-lactam vì cùng tác động trên vỏ của tế bào vi khuẩn hoặc không phối hợp hai kháng sinh cùng nhóm aminosid vì nhóm aminosid gây độc đối với tai và thận, nếu phối hợp hai kháng sinh cùng nhóm sẽ làm điếc và suy thận trầm trọng trong khi hiệu quả trị bệnh lại không tăng. Hai kháng sinh phối hợp không kích thích sự đề kháng Ví dụ như không phối hợp cefoxitin với penicillin vì cefoxitin kích thích vi khuẩn đề kháng với penicillin bằng cách tiết ra enzym phân hủy kháng sinh phối hợp với nó. Những điều trình bày ở trên cho thấy lý do vì sao có khuyến cáo chỉ sử dụng kháng sinh khi có chỉ định và hướng dẫn của bác sĩ thú y. Bởi vì có nhiều vấn đề liên quan đến sử dụng kháng sinh chỉ có người sành chuyên môn am tường, trong đó có phối hợp kháng sinh. Đối với thắc mắc về sự phối hợp cephalexin hoặc amoxicillin với cotrim, sự phối hợp này hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc phối hợp hai kháng sinh cùng loại diệt khuẩn chỉ có vấn đề cần xem xét là sự phối hợp này có thật sự cần thiết. Còn vấn đề phối hợp penicillin và streptomycin, tuy không trái với nguyên tắc phối hợp kháng sinh nhưng được khuyến cáo không nên phối hợp bởi vì streptomycin hiện nay là loại kháng sinh dùng rất hạn chế chỉ dùng làm thuốc kháng lao, thay vì phối hợp ta đã có nhiều kháng sinh mới dùng đơn độc đạt hiệu quả hơn so với sự phối hợp này. Hiệu quả điều trị bệnh do nhiễm vi khuẩn phụ thuộc Phát hiện bệnh kịp thời sớm; Chẩn đoán chính xác đúng bệnh; Sử dụng kháng sinh đúng nguyên tắc lựa chọn kháng sinh phù hợp mầm bệnh, dùng đúng liều lượng & liệu trình; trợ sức, trợ lực, chăm sóc tốt.

nguyên tắc phối hợp kháng sinh trong thú y